9/30/2008

VŨ TRỤ , KHOA HỌC VÀ DỊCH LÝ VIỆT NAM



VẤN ĐỀ ÂM DƯƠNG LÝ HỌC
Tự trong Vũ trụ Âm dương đã hiển hiện trùng trừng điệp điệp ngay từ khởi đầu của Vũ Trụ , điểm khởi đầu đó cũng là điều con người hằng mong muốn tìm hiểu khám phá , nhận thức Âm dương của con người ở mỗi nơi mỗi lúc đều có nhiều hình thức hơi khác nhau hay khác biệt hoặc quá khác , nhưng nội dung hàm chứa một Âm dương lý vĩnh viễn là một là Sự Biến dịch tạo hình Vũ trụ và Vạn vật từ một Điểm Không khởi đầu Không Hoàn Toàn Không để thành CÓ và Biến đổi Biến Hoá Biến động thành Vũ trụ muồn mầu muôn vẻ hôm nay .
Đã có rất nhiều Triết gia , Lý thuyết gia đưa ra rất nhiều Giả thuyết Cấu tạo Vũ Trụ nhưng gần nhất cận đại nhất và được các Nhà Khoa Học Lý Thuyết như Albert Einstein với Lý thuyết Tương Đối , Edwin Hubble với Thuyết Vũ trụ nở rộng dẫn đến Lý thuyết vụ nổ Big Bang và hiện nay là Nhà Bác Học Stephen Hawking của Học Hội Hoàng Gia Anh .
Các Khoa học gia ngày nay đã đành phải mô tả Vũ trụ theo hai Lý thuyềt : Thuyết Cơ Học Lượng Tử và Thuyết Tương Đối Tổng Quát để khảo sát . Thuyết Tương đối mô tả Trọng trường và cơ cấu vĩ mô của vũ trụ trong khả năng quan sát được ( 10 luỹ thưà 24 Dậm Anh ) Thuyết Cơ học lượng tử giải thích các hiện tượng vô cùng nhỏ ;do đó người ta đang cố gắng tìm kiếm một Lý thuyết hợp nhất cho cả hai .
Stephen Hawking đã viết :
Chúng ta biết gì về Vũ Trụ ? Vũ trụ có một khởi thuỷ hay không ? Và nếu có thì chuyện gì xẩy ra trước đó ? Bản chất Thời gian là gì ? Liệu nó sẽ đi tới kết cuôc hay không ?
A Brief history of time Vol. I
Để tìm cách giải quyết những bế tắc của Khoa học Tây phương Werner Heisenberg đã gợi ý qua Kinh nghiệm của Nhật Bản :
Đóng góp lớn nhất trong ngành Vật lý Lý thuyết của Nhật Bản sau cuộc chiến tranh thế giới vừa qua có lẽ là dấu hiệu của một mối liên hệ nhất định giữa các tư tưởng phương Đông và nội dung triết học của lý thuyết lượng tử.
Werner Heisenberg
Vì thế các Học giả phương tây đã ồ ạt sang Phương Đông nghiên cứu ; có thể nói người đầu tiên là Mục sư Richard Wilhelm (1873-1930) cùng phái đoàn truyền giáo sang China , Ông là người rất say mê lãnh vực Tâm linh nên đã ở lại China trên 20 năm ; nhận thấy Kinh Dịch là trọng yếu nhất trong tất cả các Bộ kinh Trung quốc , nên đã học hỏi và chuyển ngữ Kinh Dịch từ tiếng Trung hoa sang Tiếng Đức tựa đề I Ching The book of Change ( I Ging Das Buch der Wandlungen), đây cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất Thế giới là tiền đề cảnh tỉnh Khoa Học vật chất vô thần và ông đã hoàn tất vào năm 1923 Sách được dịch sang tiếng Anh bởi Kary Baynes học trò của ông .Ông là sáng lập viên China Institut tại Frankfurt nhằm cố gắng thúc đẩy sự hiểu biết giữa Đông và Tây phương ; mặc dù gặp nhiều sự chống đối của Giáo hội nhưng ông cũng được nhiều sư ủng hộ như của Bá Tước Hermann Keyserling , Karl Gustav Jung khi dậy ở The School of Wisdom Darmstadt , và nhiều người khác như Hermann Hesse , Martin Buber , Joseph Hauer. Rabindranath Tagore v.v...sau này người con của Bá tước Keyserling , Arnol Keyserling (1922-2005) Giáo sư tại Academy of Applid Arts Vienna cũng lãnh hội tinh hoa để truyền giảng cho đến nay . The Shool of Wisdom có mặt nhiều nơi trên thế giới . Tiếp đó một làn sóng đi Học Tiếng Việt nổi rộ khắp toàn cầu ; đây là điều chúng ta nên chú ý và nên đặt câu hỏi Tại sao ? .
Tại Á châu , nền Triết học Âm dương Dịch lý nằm sâu thẳm trong lòng mỗi Dân tộc cho nên chúng ta không lạ gì khi nghe nói Dịch lý Tầu , Dịch Lý Nhật , Dịch Lý Đại Hàn , Dịch Lý Việt Nam … Điều đáng tiếc là Người Việt từ lâu đã không tìm hiểu và phát triển Văn minh Dịch Lý của mình , phải chăng do bị liên tục đô hộ của Ngoại bang và do dồn góp nỗ lực chống nội ngoại xâm nên sự thăng hoa đã bị trì hoãn cùng với sự tự ti lạc hậu và vọng ngoại đã làm đình trệ Tâm thức Việt !
Gần đây một số nhân sĩ đã vực dậy Văn hoá Dân tộc; LM Lương Kim Định là tiêu biểu tuy vẫn còn ảnh hưởng Dịch Tầu dùng tài liệu của Dịch Tầu ! Hiện nay với Khoa Khảo Cổ Học một số nhà nghiên cứu như Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh , Trần Quang Bình v.v… đưa vấn đề Nguồn gốc Kinh Dịch là của Người Việt Cổ xưa và chứng minh sự kiện này là có thật với nhiều bằng chứng sâu sắc .
Năm 1965 tại Sài gòn Hội Dịch Lý Việt Nam đã ra một Tuyên ngôn Đại Chúng Hoá minh định một nền Học thuật Dịch lý hoàn toàn của người Việt không chấp vá lai căng ; đã Đại Chúng Hoá một Nền Văn Minh Dịch Lý Việt Nam , một nền Văn Học Việt Nam Mới , một Kỷ Nguyên Mới của Dân Tộc: Kỷ Nguyên Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Thức ; đã hoàn tất một Khoa Học Tổng Tập gồm 9 Phân Khoa .
Dưới đây là đoạn trích trong Tuyên Ngôn Đại Chúng Hoá :
· Trong một Đoạn Tài liệu quyển “Trí-Tri Ý-Thức lưỡng diện” ( * bí mật giao đến Hội DLVN tại Hoà Hưng) đã viết rất rõ ràng rằng: “Kể từ Lénine tới Mao-Trạch-Đông, họ luôn luôn khuyến cáo các cấp lãnh-đạo Cộng-Sản PHẢI BIẾT ĐỘI LỐT DÂN-TỘC để mà đi . Vậy, học-thuyết Tư-Bản và Cộng-Sản trên đường đi là CHUYÊN-MÔN ĐỘI LỐT DÂN-TỘC khi Xâm-Lăng, Tư-Bản và Cộng-Sản đã chung nhau ra sức Tiêu Diệt Kỷ-Nguyên Mới, tức Kỷ-Nguyên Tiên-Hậu-Thiên Trí-Tri Ý-Thức (hay Kỷ-Nguyên Liên-Hành-Tinh cũng vậy) do dân-tộc Việt-Nam Khai-Sáng, nhưng, không được, rồi vì Chuyên-môn đội lốt dân tộc, thành thử ra phải đội lốt Dịch Lý Việt-Nam để mà đi!
Điều này chứng minh rõ ràng khắp nơi ở Ngoại-Quốc đã hay biết Dịch-Lý Việt-Nam, còn như ở trong nước:
· Tuyển-Tập “TƯ-TƯỞNG” số 7/70 vàsố 5/71 của Viện Đại-Học Vạn-Hạnh các Giáo-sư có tầm-vóc lớn tại Viện này đã bày tỏ Thái-Độ và Trình-Độ Hiểu-Biết của mình về Vấn-Đề Dịch-Lý nhưng lại cố ý ém nhẹm Dịch-Lý Việt-Nam một cách lộ-liễu, đáng trách .
· Cục Quân-Huấn Việt-Nam Cộng-Hòa với Tuyển-Tập 8 đã quả-quyết: Chỉ có DỊCH LÝ mới không sợ sai lầm và chỉ có Dịch-Lý mới giải-quyết được Chiến Tranh Việt-Nam và Hậu quả .
· Giáo-Sư Hoàng-Xuân-Việt đã mời chúng tôi lên truyền hình Việt-Nam ở mục “Những vấn-đề của chúng ta hôm nay” để công-khai tìm hiểu D.L.V.N.
· Giáo-Sư Tiến-Sĩ Nguyễn-Thị-Huệ đã mời Hội DLVN diễn-thuyết tại Học-Viện Quốc-Gia Hành-Chánh Việt-Nam Cộng-Hòa .
· Giáo-Sư Phạm-Văn-Sơn giới-thiệu Dịch-Lý Việt-Nam trong quyển “Cần phát-triển Văn-Hóa Việt” đã được trường Cao-Đẳng Quốc-Phòng Việt-Nam chấm đậu “ngoại hạng” do Thủ-Tướng Trần-Thiện-Khiêm ký tên .
( Hết trích )
Vậy, đã quá rõ ràng, không thể phủ-nhận, không thể chối-cãi và cũng không thể nào cho rằng Hội DLVN CHỦ-QUAN khi nói: “Tại vì có vấn-đề DỊCH-LÝ TÂN-KỲ” do Dân-Tộc Việt-Nam Phát-Minh mà khiến xui được nhiều người Đại Trí-Thức Ngoại-Quốc học Ngôn-Ngữ Việt rần-rộ.
Riêng Đại chúng Việt Nam cho đến nay không được biết đến hoặc hay biết quá ít về Dịch Lý Việt Nam chính là do mưu đồ của những kẻ muốn thống trị VN lâu dài , đã bị và được kìm hãm truyền bá ,che dấu vu khống , bôi nhọ và trù dập những nhân sĩ chân chính của Hội Dịch Lý Việt Nam .
Tóm lại Dịch Lý là Lý lẽ biến hoá biến đổi biến động, liên lỉ liên tục, bĩ thái thái bĩ , tuần tự trật tự của Vũ trụ , là Lý lẽ Cấu thành Vũ Trụ ; là Huyền cơ Tạo Hoá , Lý lẽ ấy phải đúng ở mọi nơi mọi lúc , phải chi li nhiệm nhặt nội tại trong mọi giống loài , để khám phá được Lý lẽ ấy con người chỉ cần tự kiểm chứng , chiêm nghiệm dồi mài miên viễn với Tài liệu chính thống của Hội Dịch Lý VN để Trí tri Ý của chình mình có được thần minh vô tư bất thiên bất nhiễm bắc cầu cùng với huyền vi và hiệu hữu, tri cảm bị và được ; đó là nguyên tắc tu tập của Dịch lý Việt Nam .
Hội Dịch Lý Việt Nam
Thừa Ủy nhiệm Sư Huynh Cao Thế Nhân.
Phân Hội Đức kính cáo

Lôi Hoả Phong 12.07.MậuTí

HÌNH ĐỒ LÝ DỊCH VÔ TỰ



Lý dịch Nguyên thủy

Lý Dịch Nguyên Thuỷ Là những Ý Lý ẩn tàng khi chiêm ngắm các ĐỒ HÌNH VÔ TỰ ( không có chữ) được cổ nhân lưu truyền lại mà lãnh hội được, hiểu được Chính Lý của Tiền nhân, tất cả các Đồ hình đều chỉ là những hình vẽ, những ký hiệu, chúng không hề có những chú thích bằng ký tự của một loại văn tự nào, vì thế người ta nói đó là những Đồ hình hài thanh tượng ý để suy Lý. Những Hình Đồ này không biết đã có tự bao giờ và để giải thích nguồn gốc người ta đã huyền thoại hóa hay thần thánh hóa. Hy vọng với Khoa khảo cổ con người sẽ tìm được thời điểm xuất hiện và một cổ tự đầu tiên diễn tả Lý dịch nguyên thủy này. Hiện nay người ta đã tìm thấy một số Cổ tự trên Trống Đồng Lũng Cú và một số nới khác ở Việt Nam .

VỤ NỔ BIG BANG VÀ DỊCH LÝ VIỆT NAM

Trong lời nói đầu cuốn A Brief History of Time tác giả là Nhà Bác Học Stephen Hawking đương đại được giới Khoa Học coi là Albert Einstein thứ 2 và Giáo sư Carl Sagan viết lời tưạ có những phát biểu :
Hàng ngày chúng ta sinh hoạt trong khi hầu như không hiểu biết gì về thế giới. Chúng ta chỉ quan tâm chút ít về cái bộ máy phát ra ánh sáng mặt trời mà nhờ đó mới có sự sống, về cái trọng lực buộc chặt chúng ta trên trái đất mà nếu không có nó thì chúng ta sẽ bị thảy lăn lóc trong không gian, hoặc về những nguyên tử cấu tạo nên thân thể, và chúng ta tùy thuộc vào sự ổn cố của chúng.
Ngoại trừ trẻ con (chúng ngây thơ nên không ngần ngại hỏi những câu hỏi quan trọng), chỉ có một số ít trong chúng ta dành nhiều thì giờ để thắc mắc tại sao thiên nhiên lại như thế này thế nọ; vũ trụ phát sinh từ đâu, hay là xưa nay nó vẫn vĩnh hằng hiện diện ở đây; phải chăng tới một ngày nào đó thời gian sẽ trôi ngược chiều và những hậu quả sẽ đi trước những nguyên nhân; hoặc phải chăng có những giới hạn tối hậu đối với những gì mà con người có thể hiểu biết. Có những trẻ em – và tôi đã từng gặp một số – muốn biết một hố đen trong vũ trụ giống như thế nào; bộ phận nhỏ nhất của vật chất là gì; tại sao chúng ta nhớ được quá khứ mà không phải tương lai; nếu ở thời sơ khai có sự hỗn loạn thì làm thế nào mà hiện tại lại đang có trật tự như chúng ta thấy; và tại sao lại có một vũ trụ.
Carl Sagan Đại Học Cornell
Ithaca, New York
Tôi đã quyết định thử viết một cuốn sách phổ thông về không gian và thời gian sau khi tôi phụ trách khóa giảng Loeb tại Đại Học Harvard năm 1982. Trước đây đã có một số đáng kể những cuốn sách về vũ trụ ở thời sơ khai và những hố đen, từ những sách rất hay, như cuốn Ba Phút Đầu Tiên (The First Three Minutes) của Steven Weinberg, cho tới những sách rất dở mà tôi sẽ không nêu tên. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rằng không có cuốn sách nào trong số đó thực sự đề cập những vấn đề đã xui khiến tôi nghiên cứu về vũ trụ luận và thuyết lượng tử: Vũ trụ đến từ đâu? Nó đã bắt đầu như thế nào và tại sao? Nó có sẽ đi tới kết thúc hay không, và nếu kết thúc thì sẽ như thế nào? Đây là những câu hỏi đáng được tất cả chúng ta quan tâm. Nhưng khoa học hiện đại đã trở thành kỹ thuật hóa đến nỗi rằng chỉ có một số ít chuyên gia có thể nắm vững toán học dùng để mô tả những vấn đề đó. Tuy nhiên, những ý niệm cơ bản về khởi thủy và vận mệnh của vũ trụ thì có thể lý giải không cần tới toán học, trong một hình thức mà những người không được huấn luyện về khoa học có thể hiểu. Đây là điều mà tôi đã thử làm trong cuốn sách này. Độc giả sẽ phán đoán xem tôi có thành công hay không.
– Stephen Hawking
20 tháng 10 năm 1987
Vũ trụ và Khoa học
Khoa học hiện đại đã và đang tiến rất mạnh mẽ nhờ Lý Thuyết Tương Đối Rộng của Albert Einstein và Lý Thuyết Vụ Nổ Lớn ( Big Bang) đã loại bỏ được hai khái niệm tuyệt đối của khoa học thế kỷ 19: Thuyết không gian Ether với Vũ Trụ đứng yên tuyệt đối và Quan niệm Thời gian tuyệt đối phổ quát là bằng các đồng hồ chỉ thời gian .

Vụ Nổ Lớn là một lý thuyết khoa học về nguồn gốc của vũ trụ. Lý thuyết đó được phát biểu : Vũ Trụ được bắt đầu từ một Điểm Kỳ Dị có mật độ vật chất và nhiệt độ cực lớn vô hạn tại một thời điểm hữu hạn trong quá khứ và có Kích thước cực nhỏ .

Từ Lý thuyết này , không gian đã mở rộng cùng với thời gian và làm cho các thiên hà di chuyển xa nhau hơn, tạo ra một vũ trụ giãn nở như chúng ta thấy ngày nay.Nó được minh chứng bằng các thí nghiệm về dịch chuyển về phiá đỏ của các thiên hà (định luật Hubble). Nghĩa là các thiên hà đang rời xa nhau và cũng có nghĩa là chúng đã từng ở rất gần nhau trong quá khứ và quá khứ xa xưa nhất, cách đây khoảng 13,7 tỷ (13,7 × 10 9) năm : Vậy chúng rất gần nhau tại một điểm kỳ dị.
Cũng từ “Vụ Nổ Lớn” các Khoa Học gia sử dụng trong nghĩa hẹp là một thời điểm khi sự mở rộng của vũ trụ bắt đầu xuất hiện, và theo nghĩa rộng là quá trình tiến hóa để giải thích nguồn gốc và sự phát triển của vũ trụ .
Các Thành quả thực tế ngày nay đã chứng tỏ điều này :
Năm 1989 cơ quan NASA hàng không vũ trụ Hoa Kỳ đã phóng vệ tinh thăm dò có tên là Phông Vũ Trụ COBE , các kết quả ban đâu quan sát đươc rất phù hợp với các tiên đoán của Lý thuyết Vụ Nổ Lớn liên quan đên Bức Xạ Phông Vũ Trụ ; COBE đã tìm thấy nhiệt độ dư là 2,726K và xác định bức xạ đó là đẳng hướng và có độ chính xác 10-5
Các dữ liệu này cho phép các nhà vũ trụ học tính toán rất nhiều thông số về Vụ nổ lớn với độ chính xác cao và những khám phá bất ngờ là sự giãn nở của vũ trụ không phải là đều mà đang được gia tốc.
Vào đầu năm 2003 các kết quả từ Vệ tinh dị hướng vi sóng Wilkinson (WMAP) được phóng đi và đã thu được các giá trị chính xác nhất về các thông số vũ trụ. Vệ tinh này cũng loại bỏ một số mô hình lạm phát vũ trụ đặc .
Tất cả các quan sát đều được giải thích bằng mô hình Lambda-CDM, trong đó, mô hình toán học về vụ nổ lớn có sáu thông số tự do. Bí ẩn xuất hiện khi người ta quan sát gần điểm khởi đầu, khi mà năng lượng của các hạt lớn hơn năng lượng mà các thực nghiệm chưa đạt được.
Hiện không có mô hình vật lý nào mô tả vũ trụ ở thời điểm trước 10-43 giây,tức trước thời điểm có Điểm Kỳ Dị (Điểm có khối lượng, nhiệt độ vô cùng lớn - kích thước vô cùng bé ) . Tại thời khắc ngắn ngủi tức thì này, lý thuyết Einstein về hấp dẫn tiên đoán một điểm kỳ dị hấp dẫn, tại đó mật độ vật chất trở nên vô hạn. Để giải quyết nghịch lý vật lý này, người ta cần đến lý thuyết lượng tử hấp dẫn. Đó là một trong những vấn đề chưa giải quyết được trong vật lý
h=6.626 069 3 x10-34 J.s
h= hằng số Planck ; J = Joule ; s= giây
Tuy nhiên trong Khoa vũ trụ học, Kỷ nguyên Planck đặt theo tên nhà vật lý nổi tiếng người Đức Max Planck được dùng để chỉ khoảng thời gian sớm nhất của lịch sử vũ trụ từ lúc 0 giây cho đến 10-43giây (bằng một thời gian Planck), và ngay tức khắc sau Vụ Nổ Lớn đó bốn lực cơ bản được thống nhất. Đây là một thời khoảng lý thuyết mà tất cả những định luật của nền vật lý cổ điển cũng như vật lý lượng tử đều không áp dụng được. Có nghĩa là, trước đó trước lúc 0 Giây, chúng ta hoàn toàn không biết gì về vũ trụ với những lý thuyết vật lý hiện tại do vậy ở thời điểm ấy ta vướng phải một “bức tường” trừu tượng. gọi là Bức Tường Planck.
Thời gian và không gian mà chúng ta quy ước hiện nay trở thành các khái phức tạp và nan giải trong suốt kỷ nguyên Planck (từ 0 đến 10-34 giây ) Vì Ở Điểm Kỳ Dị , trong thuyết tương đối rộng ; các độ đo lường vật lý như áp suất, nhiệt độ …cao đến mức mà không-thời gian có vẻ như đạt đến một độ cong (curvature) vô hạn . Kích thước của vũ trụ tại thời điểm này có độ lớn bằng độ dài Planck, ký hiệu Lplanck, và có giá trị xấp xỉ , là độ dài vật lý nhỏ nhất được coi là có ý nghĩa trong các lý thuyết vật lý hiện tại. Nó thể hiện một độ dài tự nhiên theo đó xuất hiện một lý thuyết hấp dẫn lượng tử nào đó.

Trong đoạn kết của cuốn Lược sử Thời gian Stephen Hawking đã kết luận :
Tuy nhiên, nếu chúng ta khám phá được một lý thuyết hoàn chỉnh, rồi ra nó phải có thể hiểu được trên nguyên tắc rộng rãi bởi tất cả mọi người, không phải chỉ một vài khoa học gia. Rồi tất cả chúng ta, những triết gia, khoa học gia, và cả những người bình thường, sẽ có thể tham gia vào cuộc thảo luận câu hỏi tại sao chúng ta và vũ trụ lại hiện hữu như thế. Nếu chúng ta tìm được câu trả lời cho điều đó, đây sẽ là một chiến thắng tối hậu cho lý luận của con người — bởi vì khi đó chúng ta sẽ biết được ý nghĩ của Thượng Đế…
Những lý do mà Đạo của vật lý có khi bị cảm nhận như sự đe dọa nằm nơi sự hiểu sai phổ biến về tính chất đạo học. Trong cộng đồng khoa học, đạo học thường được nghĩ là một cái gì mơ hồ, ù mờ, tối tăm và hết sức phi khoa học. Khi thấy một lý thuyết đáng yêu của mình bị so sánh với hoạt động mơ hồ tối tăm đó, nhiều nhà vật lý cảm thấy bị đe dọa rất nhiều.
Cái nhìn sai lầm này về đạo học thật sự là rất đáng tiếc, vì nếu ta đọc những kinh sách cổ điển của các truyền thống đạo học, ta sẽ thấy những chứng thực tâm linh sâu xa không bao giờ được mô tả một cách mơ hồ tối tăm, mà ngược lại, nó luôn luôn liên hệ với sự sáng sủa. Hình tượng tiêu biểu mô tả thực chứng này có thể là dứt bỏ vô minh, cắt bỏ ảo giác, tâm thức sáng tỏ, nhận thức ánh sáng, hoàn toàn tỉnh giác - tất cả những cái đó nói về sự sáng tỏ. Thực chứng tâm linh lại đi ra khỏi mức độ suy luận trí thức, nên sự sáng tỏ là một thể loại khác, nhưng nó không có gì là mơ hồ hay tối tăm cả về các thực chứng này. Thực tế là từ giác ngộ mà chúng ta dùng để mô tả thời kỳ của Cartesi mới, thời kỳ tiếp cận khoa học ở châu Âu vào thế kỷ 18, là một trong những từ cổ nhất và được sử dụng rộng nhất để mô tả thực chứng tâm linh.
The Tao Of Physics FritjCapra
Kinh Dịch, không ai chối cãi được là một trong những cuốn sách quan trọng nhất của văn học thế giới. Nó manh nha từ thời cổ đại huyền bí. Cho đến ngày hôm nay các nhà thông thái quan trọng nhất của Trung Quốc vẫn còn tìm hiểu về nó. Hầu như tất cả các tư tưởng lớn và quan trọng nhất của một lịch sử 3000 năm ở Trung Quốc, một phần là do cuốn sách này gợi mở, phần khác là muốn lý giải nó, để ta có thể yên tâm nói rằng, trong Kinh Dịch một nền văn minh triết già dặn nhất của ngàn năm đã được trình bày.
Richard Wilhelm
Nhà nghiên cứu tư tưởng Trung Quốc
Đóng góp lớn nhất trong ngành Vật lý Lý thuyết của Nhật Bản sau cuộc chiến tranh thế giới vừa qua có lẽ là dấu hiệu của một mối liên hệ nhất định giữa các tư tưởng phương Đông và nội dung triết học của lý thuyết lượng tử.
Werner Heisenberg.

Rất tiếc GS F.Capra và R.Wihelm không biết gì về Văn minh Việt Nam và Dịch lý Việt Nam; họ chỉ biết đến China ,Japan… ! Nhưng dù sao họ cũng thấy được nhu cầu quan trọng của Trí tri Ý và mối tương quan bất khả phân giữa Tâm thức và Vật chất .

Vũ Trụ học và Dịch Lý Việt Nam

Dịch Lý Á đông ( Tầu , Nhật , Đại Hàn …) được thế giới khoa học biết đến như một kho tàng khổng lồ về ý nghĩa và nội dung cùng với Hình đồ và Ngôn từ khó hiểu nhưng man mác những ý nghiã siêu tuyệt tạo sự hiếu kỳ thích thú đặc thù cho các Nhà Khoa học nghiên cứu . Pho sách của Chu Hy được Khổng Tử san định là một trong những kho tàng này .
Riêng đối với người Việt Nam ; có thể nói Dịch Lý đến từ hai nguồn
1. Nguồn thứ 1 : Từ giới kinh điển khoa bảng thời Phong kiến , chịu ảnh hưởng rất nhiều của phương Bắc Trung Hoa với Tứ Thư Ngũ Kinh và không phổ biến trong giới bình dân .
2. Nguồn thứ 2 : Từ Văn hoá Ẩn tàng truyền tụng Lý dịch trong Dân gian ; Ngôn từ của Người Việt tràn đầy Âm Dương Lý độc đáo bằng Văn chương truyền khẩu bất đắc dĩ phải có do mộng đồng hoá xâm lấn và khống chế lâu đời của người Trung Hoa khiến Văn Hoá Âm dương nằm sâu trong tiếng nói và trong Ca dao VN …Từ một thời trục đe doạ hạnh phúc nhân loại ,mâu thuẫn ,chết chóc, ngạo mạn đổ trên đầu các Dân tộc yếu kém nên các Dịch Lý Sĩ Việt Nam buộc phải nói lên tiếng nói bất khuất của Văn minh Việt Nam.
Dịch Lý Việt Nam khai mở Kỷ Nguyên Mới từ Nguồn thứ 2 này .
Dịch Lý Việt Nam không dài dòng kinh điển như các loại Dịch Lý quảng diễn ở các Quốc gia khác . Dịch Lý Việt Nam chỉ có một khám phá rất giản dị nhưng phi thường , một Nguyên Lý đơn sơ nhưng huyền biến , một công thức mộc mạc nhưng là quyền năng của Vũ Trụ ; Công thức của Luật Biến Hoá đó là :
CÁI MỚI = CÁI CŨ + CÁI HƠI KHÁC
Nói cách khác đó là YẾU LÝ ĐỒNG NHI DỊ
Và ta phát biểu : Cái mới là Cái giống mà hơi khác với Cái cũ .
Vâng :
1. Yếu Lý Đồng Nhi Dị giải thích tại sao từ Vô cực lại thành Thái Cực .Chỉ là vì Lý trí đã nhận thức Vạn vật đều Biến Hoá Biến đổi Biến động , khi biết có KHÔNG là đã có CÁI KHÔNG , cái Không vừa có mang hình ảnh Giống mà hơi khác với cái Không cũ ; vậy Thái cực chính là bộ mặt mới cuả Vô cực giống mà hơi khác Vô cực ; Chính ngay cái không điểm thời điểm của cái Điểm Kỳ Dị mà các Nhà Khoa Học ngày nay với Lý Thuyết BIG BANG đã vận dụng chính Tri Tri Ý và kiến thức Khoa học của mình để chứng minh rằng Vụ nổ Lớn khởi đầu tạo ra Vũ Trụ có Không gian vô cùng nhỏ và thời gian là 10-43 Sec ( không phảy 42 con số không sau không phảy ) Đỉểm Kỳ Dị chính là bộ mặt mới của cái Không ban đầu . Sự Biến Hoá mầu nhiệm này là có thật và còn nhanh hơn cả thời gian 10-43 Sec nhiều lần so với chính lý trí con người một tiểu vũ trụ cảm nhận được .
2. Cũng chính nhờ cái lý lẽ giống mà hơi khác này chúng ta thấy ngay một Hiện hữu hay một cái Thành ra nào đó đều có trong nó cái giống mà hơi khác với cái trước nó ; điều này đúng ở khắp mọi nơi mọi lúc bất kể không gian thời gian ( không thời gian) ; từ đó để neo ý Cổ nhân bèn vẽ Hình Đồ Thái Cực ; nhưng chưa đủ diễn tả ý nghiã Giống Mà Hơi Khác của một Hoá Thành lập tức tức thời Biến Hoá Biến đổi như thế nào Cổ nhân lại vẽ thử một Vạch ; cái vạch này lại quá lớn ! quá quá quá nhiều những điểm giống mà hơi khác với điểm khởi đầu …trụ thần lại Cổ nhân bèn vẽ Một Gạch liền ,Một Gạch đứt nhưng phải neo theo ý nghiã biến ra cái giống mà hơi khác trong một không thời gian cực ngắn . Danh neo ý gọi là Âm Dương Lưỡng Nghi
3. Một vấn nạn kế tiếp là Công Thức Hoá Thành cho biết
CÁI MỚI = CÁI CŨ + CÁI HƠI KHÁC phải bao hàm các ý nghiã :
· Thứ Nhất là phải đồng thời thể hiện được sự tương tác giao hoán qua lại của Âm Dương Cũ Mới nếu không thì không có biến hoá ; Sự Tương tác giao hoán cho ta Lý tính đối đối kháng kháng , động tĩnh tĩnh động , bị được sinh sinh khắc khắc, tuần tự trật tự .
· Thứ Hai trong Một Thể Hiện hữu Hoá thành ấy đồng thời phải thoả mãn là trong nó buộc phải có cả 3 cái : cái cũ, cái mới ,cái hơi khác lập tức tức thời .
4. Từ Ý nghiã thứ nhất tạo ra Lý tính hay Thần tính sinh động : Danh gọi là TỨ TƯỢNG
5. Từ Ý nghiã thứ hai tạo ra Một Hoá Thành có 3 Gạch .Danh gọi là BÁT QUÁI
















6. Từ đây mỗi Quái trong Bát Quái đã trọn vẹn mang đầy đủ ý nghiã của một Hoá Thành , Bát quái đại diện cho vạn loại Hoá thành , 8 loại Hoá thành ẩn trong nó đầy đủ ý ,lý ,nghiã của Yếu Lý Đồng Nhi Dị . Các loại chúng sinh hoá thành này mang theo ý lý nghiã của mình để giao hoán đối đãi tạo ra 64 TƯỢNG tình ý tình lý trùng khắp trong Vũ trụ Vạn vật .
VIỆT NAM DỊCH LÝ HỘI
Phân Hội Đức

Không có nhận xét nào: