12/11/2010

Âm Dương Trí Tri Ý Luận

Âm Dương Trí Tri Ý Luận
( Quảng Diễn các Bài Giảng cuả DLS Xuân Phong và Cao Thanh )

Là con người ở bất kể chủng tộc, mầu da, thời đại, địa lục ai ai cũng nhận thức rằng từ trong cái Não bộ cụ thể có một cái thực thể tồn tại vô hình gọi là Lý Trí, hoạt động của nó là luôn luôn vận dụng mọi giác quan để quan sát, thắc mắc, phân biện, suy tư về những khách thể đang sống động chung quanh nó .
Cái Lý trí siêu tuyệt này luôn luôn thắc mắc và đòi hỏi tự thân mỗi con người tuỳ tư chất, tư năng cơ cấu đã hóa thành tìm mọi cách lý giải những thắc mắc của mình sao cho hữu lý . Mọi lý giải hữu lý đều được coi là những Hoá thành Thành quả cụ thể của Kho tàng Kiến thức Nhân loại sau khi chính những kiến thức này tự gạn lọc để tồn tại hoặc đào thải theo Lý tính tự nhiên Giống Mà Hơi Khác ( GMHK) mà thành ra những chính lý phổ cập trong thời đại , giai đoạn tiến hoá của Nhân loại .
Trong cái Kho tàng Kiến thức khổng lồ này cuả Nhân loại Vấn đề tồn tại lớn nhất là Chân Lý và rồi cứ cái này là Chân lý làm đổ ngã cái Chân lý kia ; nhưng con người không hề mất nỗ lực truy tìm một cái Chính Lý cuả Chân Lý , Lý trí con người vẫn luôn tìm mọi cách để Lý giải đến tận cùng kỳ lý của Lý trí mon men tới được ; bởi vì nó chỉ chấp cái hữu lý , cái chính , cái chân lý vô tư công bằng đúng ở mọi nơi mọi lúc .
Người học Dịch Lý Việt Nam tuân thủ Đức Vô tư khách quan , Tính công minh công bằng của Chân lý ấy , và do nhu cầu của Lý Trí đòi hỏi sự công bằng ấy phải đúng cho tất cả muôn loài Vạn vật, muôn ngàn Sự Vật Sự Việc ( Sự Lý) kể cả cho Cái Tôi - Con Người, thế nên việc thắc mắc cho chính cái Lý Trí kề cận nhất gần nhất của Cái Tôi - Con Người cũng phải được chính Lý Trí của nó Lý giải , đó là lý do tiền nhân thường khuyến cáo : DỊCH LÀ GẦN giúp Lý Trí nhận biết Lý Dịch.

Lý Trí là Cội nguồn của Âm Dương Trí Tri Ý Thức

Trong sâu xa của Lý trí , lộ trình của nó từ Hiểu biết chuyển hoá để Biết hiểu, Biết Không Hiểu và ngược lại là lộ trình siêu hiển hiển siêu là siêu nhiên lộ Vô hữu Hữu vô qua lại nhanh vô cùng để bề dầy của nó nhờ Đức Manh Nha nhiệm nhặt liên lĩ Cực ( Manh Vi ) mà Tánh Hiểu biết và Không Hiểu Biết của nó phát triển không ngừng nghỉ, là nền tảng cho Trí Tri Ý Thức biến hoá hoá thành mãi mãi lập tức tức thời , kỳ diệu, không giới hạn .
Cái Tánh Biết và Không Biết của Lý Trí chính là Âm dương động lực thúc đẩy tiến bộ để luôn luôn có một Bộ mặt Mới Giống Mà Hơi Khác (GMHK) với Bộ Mặt Cũ của nó ,
Biết Biết ( biết mình biết) Biết không Biết ( biết mình không biết) lại là một biến hoá Giống Mà Hơi Khác nữa nhiệm nhặt hơn của Tánh Biết .
Nhưng Biết cái gì và Biết ra sao là Sản phẩm Hoá thành của Tánh Biết và Không Biết , là cái Tánh Biết đã Biết Hoá ra cái gì và Biết Trở nên như thế nào ?
Theo dõi những Lý lẽ và Đức Tính trên của Lý Trí là chúng ta tìm được Cội nguồn của mọi Trí Tri Nhân loại Vạn vật và về đến bến bờ của Âm Dương Trí Tri Ý Thức.

Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Thức

Học Thuyết Tiên Hậu Thiên Trí Tri Ý Thức là nền tảng của Dịch Lý Việt Nam , là kết quả Hoá Thành kinh qua Hoạt động của Lý Trí Tánh , là Thành quả của Âm Dương Lý Trí Tánh Tương động Tương Giao Tương Cảm Tương Sinh mà Biến Hoá Hoá Thành làm mẫu mực xây dựng và tái tạo kiến thức Âm Dương Âu Lạc Tiên Rồng ngàn xưa .
1. Lý Trí Tánh khám phá Yếu Lý Đồng Nhi Dị

Theo dõi Trí tri , theo dõi sự xuất hiện cái Biết và Không Biết của Trí tri , so sánh giữa cái Biết Mới và Cái Biết Cũ tất cả đều chỉ có chỗ GIỐNG MÀ HƠI HƠI KHÁC hay HƠI KHÁC ( Đồng ) hoặc QUÁ KHÁC ( Dị ) ; những Cái Biết này Đồng Đồng Dị Dị tinh tế nhiệm nhặt , ngay cả Hiểu cũng Giống Mà Hơi Khác Biết vì thế sự phân biệt rất dễ lầm lẫn nếu không xét tình lý ấy trong một phạm vị nào đó .
Ví dụ nếu chỉ xét Đồng Nhi Dị trong phạm vi của Ý một Hoá thành của Lý Trí Tánh ta thấy sự Giống mà Hơi Khác như sau :

Ta gọi đây là TRÍ TRI Ý CƠ CẤU

Trí Tri Ý Cơ Cấu khi giao du với Các Sự Lý ( Sự Vật Sự Việc ) đi lại thu phóng cực nhanh đến nhiều Phạm vi của Sự Lý trong cùng thời lúc đến nỗi chúng ta có thể trở thành nói năng lẫn lộn phạm vi này qua phạm vi kia, nói lấp bấp vì không kịp thu phóng hoặc lạc đề đáng tiếc để không ai hiểu mình nói gì !
Vì thế người học Dịch Lý VN cần nắm vững Yếu Lý Đồng Nhi Dị ( ĐND ) và phân biện Phạm vi Tình Lý nghĩa là Thu Ý và Phóng Ý đúng Thời Lúc, chính xác trong Phạm vi của Sự Lý đang động tĩnh để Biết cái Biết và Biết cái Không Biết ngõ hầu vô tư trung thật với chính mình với mọi người và muôn vật .
Cũng từ Yếu Lý Đồng Nhi Dị Lý Trí còn khám phá được Trí Trí Ý lúc thì bình thường từ Giác quan Trí óc lúc thì Linh động khác thường từ tiềm thức, linh tính, phản xạ vượt ra ngoài khả năng kiểm soát của Giác quan, lúc thì Hiển hiện lúc thì ẩn tàng ta gọi là Âm Dương Trí Tri Ý ; cùng một cái Trí Tri mà cùng lúc lại có hai Giống mà Hơi Khác vậy :
ĐỒNG NHI DỊ LÀ ÂM DƯƠNG LÝ GIỐNG MÀ HƠI KHÁC
Ý thức được khả năng Âm Dương Trí Tri Ý của Lý Trí Tánh, Cái Tôi - Con Người biết xử dụng chính nó làm Gậy Thần Sách Ước cho chính Lý Trí mình làm khí cụ cho Tính Biết Trở Nên Biết Hoá thành dồi mài Trí Tri Ý Thông thường làm chỗ nương tựa cho Trí Tri Ý Khác Thường trở nên Linh hoạt hơn đó là biết vận dụng Âm Dương không thể phân cách tách biệt , đó là nghệ thuật làm nẩy sinh Hoá Sinh ra Thần thức và Đức Thần Minh cho chính Lý Trí của mình.
2. Những khám phá của Lý Trí Tánh nhờ Đồng Nhi Dị 

· Luật Biến Hoá : Cái Tôi - Con người, ngắm nhìn Vạn vật quanh mình nó nhận thức ngay rằng Vạn vật ấy cũng như mình là một trong muôn vàn Hoá thành trong Vũ Trụ Giống Mà Hơi Khác với nó cũng sống chết, buồn vui , sinh sinh diệt diệt, đồng thời cũng thấy trong nó như một Tiểu Vũ trụ động tĩnh Giống Mà Hơi Khác với Vũ Trụ hiện hữu ; Cái Tôi ấy còn ghi được đường đi của Trí tri Ý luôn tiêu trưởng, ẩn hiện , luôn biến đổi biến động lúc sáng lúc tối trí, lúc nhanh như thần lúc ù lì chậm chạp và với Tánh Hiểu Biết , Biết Hiểu và Biết Không Hiểu ta có :
· Và Yếu Lý được khám phá :
Thì ra bất kể là Người, Vật hay Việc gì kể cà Vô Hình như Trí tri cho đến Hữu hình ô dề cục mịch dễ thấy, đều Biến Động, Biến Đổi và Biến Hoá Hoá Thành theo một Lý lẽ duy nhất là GMHK với chính nó .
Từ đó Luật Biến Hóa được phát biểu :
Ngay trong lúc Biến Động , Biến Đổi , Biến Hoá thì Mọi Hoá Thành chúng đều có những Lý lẽ Nội Hàm cùng lúc chung cùng lập tức tức thời như sau :
· 
Có Tương Đông Tương Giao Tương Cảm Tương Sinh: Vì Uyên Nguyên cuả Biến Hoá là GMHK, là „ Cú Hích „ để Vận Động , là Luật Cấu Tạo Hoá Thành Vũ Trụ nên không thể còn Cái KHTK được nữa vì nó đã Động Biến GMHK thành Cái Mới KHTK Cực nghiã là nó đã Động Giao Cảm để Hoá Sinh KHTK CỰC còn gọi là THÁI CỰC là Hoá Thành mẫu mực của mọi Hoá Thành sau này và đời đời mãi mãi GMHK như thế .
· Có Đạo Lý Cực: Không tiến tới Cực thì không có Cái Mới ; Miên man trong chuỗi Biến hoá GMHK vô cùng tận của Vũ Trụ, Lý Trí Tánh lại khám phá rằng cứ mỗi lần Biến hoá chuyển sang Bộ Mặt Mới thì những điểm khởi đầu chuyển hoá Cực nhanh Cực nhỏ , tạo một Chuỗi Cực liên lỉ liên tục phủ trùm mọi chiều kích bất kể Không Thời Gian, tại đó những Điểm uốn lập tức tức thời ấy gọi là CỰC GIAI ĐOẠN để GMHK với Bộ Mặt Cũ trước khi hình thành Bộ Mặt Mới, danh gọi là Manh Nha hay Manh Vi , Đây cũng là Đạo Cực , Đạo Hoá Sinh Sinh Sát của muôn loài :
· Có Lý Lẽ Khởi Dứt: Do Đạo Cực ấy mà mọi Hoá Thành buộc phải liên lỉ liên tục để tuân thủ Luật Biến Hoá để Hoá Thành hoá ra , cái này Khởi thì cái kia Dứt vạn vật cứ thế trầm luân, cái trước cái sau khai mở theo Biến Hoá Luật đó là Tài năng siêu tuyệt cuả Tạo Hoá chỉ có Nhất Luật Biến Hoá Nhất Lý Đồng Nhi Dị mà Tạo dựng ra Muôn vật Vô Hữu Hữu Vô .
· Có Tuần Tự Trật Tự: Đã Là Một Cái Thành ra thì phải có Cái Trước nó đã Cực biến ra nó và phải sẽ có cái Sau nó để nó cũng phải tuân thủ Lý Lẽ Cực ấy và cứ thế Tuần Tự Trật Tự thành một Chuỗi Hoá Thành GMHK với các Chuỗi Hoá Thành Khác.
· Có Lý Lẽ Sinh Khắc: Khi Hoá Thành đã Tương Động Tương Giao thì không thể không Tương Cảm nghiã là biết Yêu ghét, biết hút đẩy , biết cho nhận biết giận thương, biết yên bình giận dữ , biết sáng tối, ...đó lá AD Tình Ý Vũ trụ .
Bởi vì khi đã Hoá Thành thì đã là một Chủ thể hiện hữu so với các Khách thể Hoá thành khác và ta chì có các trường hợp :
- Khách thể đã hỗ sinh Chủ thể
- Chủ thể hỗ sinh Khách thể mới gmhk.
- Khách thể gmhk khắc chống Chủ thể.
- Chủ thể khắc chống lại Khách thể .
Như vậy 4 Đối tượng ( Tứ tượng) vừa liên hệ Vận hành Sinh Khắc nêu trên kể cả Chủ thể nữa là 5 gọi là NGŨ HÀNH hay NGŨ THẦN là những Bộ Mặt của một Hóa Thành , của một Hiện hữu khi Động Giao Cảm mà AD TÌNH LÝ TÌNH Ý hoá sinh hoá thành .

3. Lý Trí Tánh Truy Nguyên

Sau khi khám phá Nhất Lý Nhất Luật , Lý Trí Tánh tiếp tục Truy nguyên về Cái Hoá Thành , Cái nào là Cái Thành đầu tiên khi Vũ Trụ có Nhất Luật Nhất Lý như nhiên tự nhiên ấy.
Có Biến hoá là có Tạo Hóa , có Trời Đất bởi vì Không Biến hoá thì chẳng có cái gì cả là cái Không, cái KHÔNG HOÀN TOÀN KHÔNG ( KHTK ) thì không có Đồng Nhi Dị , không có Vũ Trụ, không có muôn loài , vậy là Hư Vô .
Thế nhưng khi Lý Trí Tánh vừa nhận thức cái Hư Vô ấy thì lập tức tức thì Trí Tri đã nhận ra là đã CÓ CÁI KHÔNG rồi không thể nào trở về lại được Cái KHTK nữa ; cho dù cứ tưởng tượng ngàn lần về cái KHTK thì cũng là đã có Cái Không rồi ! Vậy là Lý Trí Tánh buộc phải chấm dứt Truy Nguyên; không còn cái gì trước KHTK nữa ; KHTK là không còn cái Lý Trí Tánh Hiểu Biết , Biết Hiểu nữa thì lấy gì để Truy Nguyên !
Cái Tôi liên tục trầm mặc , lý luận , biện minh cho cái Hiện Hữu của KHTK mờ mịt này ...nhưng chính cái Lý Trí Tánh đã dứt khoát chỉ ra rằng KHTK không còn nữa nó đã Biến Hoá Hoá thành muôn vật , nó đã là Cơ Nghiệp đầy dẫy của Tạo Hóa , nó đã CỰC để thành KHTK Cực tức đã Hoá thành VÔ CỰC rồi nghiã là nó đã theo Lý lẽ Cực , đã trở thành GMHK với KHTK rồi .
nói cách khác KHTK Cực là KHTK được và bị Lý Trí Tánh Tôi-Con Người đã mon mem tới , được và bị nhận biết Tính Manh nha GMHK đã Hoá Thành KHTKCỰC, thành VÔ CỰC rồi .

Lý Lẽ Một mà Ba:

Một lần nữa Lý Trí Tánh xác định Yếu Lý ĐND GMHK trong cái Hoá Thành Vô Cực ; Vô Cực là một cái đã Hoá Thành : CÁI MỘT đã và chỉ có nghiã khi Cái Thứ 2 KHTK mà nó vừa mon men đến có Cái Manh Nha là Cái Thứ 3 ban nghiã lý cho nó để Hiện hình đáp ứng nhu cầu cho Lý Trí Tánh . Từ đó xác định :
· KHTK xứng là ÂM ẩn tàng là Bộ Mặt Cũ
· KHTK Manh Nha hay Manh Vi xứng là Dương GMHK hiển lộ ra .
· KHTK Cực là Cái Vô Cực đã thành ôm ấp Âm Dương GMHK không thể tách rời của Bộ Mặt Cũ KHTK so với Vô Cực là Bộ Mặt Mới ( BMM ).

Danh Lý ÂM DƯƠNG
Vậy Danh Lý ÂM DƯƠNG được hình thành và có nghĩa theo Lý lẽ Một Mà Ba này .
- AD là Giống Mà Hơi Khác hay Khác Mà Hơi Giống.
- Không có Âm Hoàn Toàn Âm hay Dương Hoàn Toàn Dương .
- Có AD là có Giao Hoán Động Tỉnh Cảm Sinh .
- AD là Đồng Dị ,Dị Đồng, Nơi nào có ĐỒNG DỊ là có Âm Dương .
- Đồng đâu thì Dị đó, Dị đâu thì Đồng đó.
- Đại Đồng thì Đại Dị , Tiểu Đồng thì Tiểu Dị.
- Đại Đồng có Tiểu Dị, Đại Dị thì có Tiểu Đồng
- AD tuy Hai mà là Một để bổ nghiã cho nhau , cung cầu san sẻ hấp dẫn lẫn nhau cùng lúc chung cùng, Âm đâu thì Dương đó , Dương đâu thì Âm đó .
- Âm trưởng Dương tiêu, Duơng trưởng thì Âm tiêu.
- Âm ẩn thì Dương hiện, Dương ẩn thì Âm hiên

4. Lý Trí Tánh Hoàn Nguyên
 
Lý Trí Tánh không dừng lại sau khi đã Truy nguyên nghiã là sau khi đã mon men về đến Tiên Thiên Trí Tri Ý ; nó tiếp tục trở về Truy nã Hậu Thiên tức Hoàn nguyên, tiếp tục mổ xẻ các chuỗi Hoá thành khởi từ Hậu Thiên Vô Cực để theo dõi sự Tưởng Giao,Tương Cảm , Tương Động , Tương Sinh của Âm Dương đang Động tĩnh trong muôn loài Vạn Vật Hiện Hữu.
Lý Trí Tánh của Tiền Nhân , Cái Tôi - Con Người Tiền Nhân đặt tên cái Danh Vô Cực , Thái Cực cho Tượng Hình trong Thái Cực Đồ Vô Tự mà Tổ tiên để lại cũng cho thấy Lý Trí Tánh của các ngài đã Truy Nguyên về đến KHTK và nhận biết KHTK Cực , nhận biết Đạo Cực .
 
Như vậy :
Sự thật đây chỉ là một gượng ép để phân tích diễn tả một Chỉnh thể bất khả phân nội tại AD của Sự Lý nếu không cảm nhận được sự Tương Động Tương Giao Tương Cảm Tương Sinh GMHK đang liên lỉ Biến Động Biến Đổi Biến Hoá lập tức tức thời trong mỗi Nội tại ấy .
Mặc dù sự Phân tích là gượng ép nhưng là chính lý vì tuân thủ AD ĐND và giúp người học hãnh tiến do đó chúng ta cần diễn giải những Biến Hoá Hoá Thành neo được Ý Lý Âm Dương ĐND .
Trải qua bao nhiêu thời đại Dịch Lý chỉ được phổ biến những giá trị thực dụng, những kết quả hấp dẫn khi ứng dụng Dịch Lý . Điều đáng tiếc là Nguồn gốc Lý thuyết đã bị phai mờ hay bị lờ đi bằng những Huyền Thoại Mu Ruà Long Mã .
DLVN khai phá rất rõ ràng phần Truy Nguyên tức Tiên Thiên Trí Tri Ý làm cơ bản cho Phần Lý Giải Hậu Thiên Trí Tri Ý tức Hoàn Nguyên mà không làm lạc Ý lạc Lý mà còn Khoa học hóa Luận Lý Tinh Hoa Di sản của Tiền Nhân . Di Sản về Vạch Hào được coi là hữu hiệu nhất để mô tả Lý Biến Hoá Hoá Thành : LÝ THÀNH
DLVN xử dụng Học Thuyết TIÊN HẬU THIÊN TRÍ TRI Ý THỨC khai mở HẬU THIÊN TRÍ TRI Ý như sau :

5. Tiên Thiên Lý Thuyết khai dụng

Mọi Hậu thiên Hoá thành đều phải đáp ứng 3 điều kiện Tiên Thiên
· Thoả mãn Yếu Lý Đồng Nhi Dị : một mà có 2 nhưng lại là 3 tự ban nghiã cho nhau .
· Thoả mãn Lẽ Khỏi Dứt: Khởi Vô Dứt Hữu, Khởi Âm Dứt Dương (Â trước D sau ), Gốc dưới Ngọn trên . ( mầu đỏ hình bên dưới)
· Thoả mãn Lẽ Cực, Đạo Cực để chuyển thành cái Mới GMHK .

6. Tiên Thiên Trí Tri Ý lý giải Hậu Thiên Trí Tri Ý



7. Vận Hành Đệ Nhiên Sinh

Hoá Thành ra cái này cái nọ cái kia ra muôn hình vạn trạng , mà không có Sinh khí thì chỉ là những lầm tưởng khi chúng ta vô tình tách rời Tính lý tình ý của chúng ra khỏi Thể trạng của chúng ; do đó DLVN có cụm từ « CÙNG LÚC CHUNG CÙNG » và « LẬP TỨC TỨC THỜI » là để diễn tả tính bất khả phân và bất chấp không thời gian của Âm Dương Vận Hành trong khi bất đắc dĩ phân chia một AD Sống Động bằng 2 vạch Đứt và Liền .
Do vậy từ khi AD hình hoá hoá hình ra ra Bát Quái với 64 AD Tình Lý cho đến khi là một Thực Thể Hiện hữu thì tất cả những Tính Lý Tình Ý ấy đã cùng lúc chung cùng lập tức tức thời Vận Hành trong chúng ; nói khác đi AD Bát Quái đã có sẵn trong mình AD Ngũ hành để Vận động Hoá Sinh Sinh Hoá gọi là Đệ Nhiên Sinh Hoá Đệ Nhiên Sinh Thành . Là Tính Lý Tình Ý của mọi CÁI NHIÊN trong Vũ Trụ từ thưở KHTK CỰC và mãi mãi đến muôn đời .
 
Lời kết
 
Tiểu luận được viết để ôn tập cho Học viên cũng là như một Bài Mẫu để bước vào trình độ Cao Đẳng DLVN Học viên sẽ phải diễn tả những nhận thức của mình tuy theo từng Vấn đề ngõ hầu Quảng diễn tư duy Dịch Lý của mình bằng những Tiểu Luận tương tự , đồng thời từ kiến thức tổng hợp tóm lược này mong mỏi Học Viên sẽ dễ dàng chuyển hoá thành những nhận thức có sắc thái riêng của mình hơn ; và nhất là khi sẽ học tới các Bài chi tiết trong nền Văn Minh Dịch Lý Việt Nam không gặp nhiều trở ngại về Căn bản .
Việt Nam Dịch Lý Hội
Phân Hội Đức
Hạnh Thanh
Lý Thuần Càn

Không có nhận xét nào: